Sunday, January 30, 2011

Một số điều cần biết khi kinh doanh với Singapore


Một số điều cần biết khi kinh doanh với SingaporeIn
1. Các quy định về xuất nhập khẩu

1.1 Chứng từ nhập khẩu
Bộ chứng từ nhập khẩu bao gồm: 
+         Hóa đơn thương mại
+         Phiếu đóng gói
+         Vận đơn
+         Các chứng từ có liên quan khác (giấy phép nhập khẩu...)

Đối với một số sản phẩm nhất định cần phải có các chứng từ như sau:
+         Các thương nhân kinh danh các sản phẩm thực phẩm tươi sống hoặc đã qua chế biến (bao gồm cả các thiết bị chế biến thực phẩm) cần phải đăng kí với Cơ Quan Thú Y và Thực Phẩm Nông Nghiệp (AVA) bên cạnh việc đăng kí với Hải Quan.
+         Các mặt hàng nước khoáng thiên nhiên, nước lọc, nước suối đóng chai, nước mắm, nước tương, thực phẩm, các loại thực phẩm qua chiếu xạ cần phải có các chứng từ bổ sung.
+         Các nhà nhập khẩu nếu muốn được hưởng ưu đãi về thuế quan thì cần phải có giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa.
+         Các nhà nhập khẩu ô tô đầu tiên phải có được giấy cho phép thanh toán thuế hàng hóa dịch vụ.

Giấy phép nhập khẩu 
Các nhà nhập khẩu phải dành được giấy phép nhập khẩu qua TradeNet (hệ thống điện tử do Cục Hải quan Singapore quản lý) trước khi nhập bất kì một loại hàng hóa nào. Nhờ TradeNet, một thương nhân có thể nộp đơn xin cấp giấy phép tại chính văn phòng của mình. Đơn xin giấy phép sẽ được tự động chuyển đến các cơ quan chức năng để xem xét và thông qua trong vòng nửa ngày. Khi đã được thông qua, các thương nhân sẽ chỉ việc in giấy phép đó ra. Việc nộp thuế hàng hóa và dịch vụ (GST), thuế hải quan và các phí khác sẽ được tự động khấu trừ vào tài khoản của thương nhân đó tại ngân hàng. Theo các nhà chức trách thì 90% các trường hợp, thời gian làm một thủ tục xin giấy phép qua TradeNet chỉ mất khoảng 10 phút.

Tuy nhiên đối với các hàng nhập khẩu có giấy phép tạm nhập ATA thì không cần phải có giấy phép nhập khẩu.

1.2 Các mặt hàng cấm nhập khẩu
+         Những loại rượu gây say và các loại thuốc lá có đánh dấu "Singapore không trả thuế" trên nhãn mác, trên hộp catton hoặc trên những gói hàng như là mặt hàng thuốc lá có chứ cái đầu "E" in trên hộp bao bì.
+         Kẹo cao su (Chewing gum)
+         Thuốc lá nhai và những sản phẩm thuốc lá bắt chước theo
+         Bật lửa hút thuốc có hình súng lục
+         Thuốc và các chất gây kích thích
+         Những loài hoang dã có khả năng tuyệt chủng hoặc bị đe doạ và những sản phẩm chế biến từ chúng.
+         Pháo
+          Những bài báo, ấn phẩm, băng video và phần miềm khiêu dâm.
+          Những tác phẩm sao chép ấn phẩm, băng video hoặc băng đĩa ghi âm hoặc băng cassett
+          Nguyên liệu độc hại
+          Đồng xu và tiền giấy đồ chơi
+          Bia ủ sản xuất tại địa phương và bia đen có gắn nhãn "Bia ủ xuất khẩu"

1.3 Các mặt hàng thuộc diện kiểm soát nhập khẩu 
+         Máy móc giải trí, tiền đồng, máy chiếu phim
+         Thú vật, chim chóc và sản phẩm làm ra từ chúng.
+         Vũ khí và chất nổ.
+         Các mặt hàng có chứa a- miăng.
+         Các mặt hàng quần áo có tác dụng bảo vệ người sử dụng chống lại các cuộc tấn công, kể cả áo chống đạn.
+         Các loại pin.
+         Các loại cartridge, băng cassette, đĩa CD thu sẵn.
+         Các loại hoá chất độc hại, thuốc trừ sâu
+         Kẹo chewing-gum.
+         Chất CFC (Chlorofluorocarbon)
+         Bật lửa có hình khẩu súng.
+         Mỹ phẩm, ngoại trừ kem và nước có tẩm thuốc sử dụng cho mặt và da do DAD kiểm soát.
+         Dầu diesel
+         Kim cương và sản phẩm làm từ kim cương nhập từ Angola.
+         Kim cương thô từ Liberia và Sierra Leone.
+         Phim ảnh, đĩa video, đĩa laser phim ảnh
+         Pháo hoa.
+         Cá và sản phẩm từ cá (kể cả tôm, mực)
+         Thực phẩm (ngoại trừ rau quả tươi hay trữ lạnh).
+         Trái cây (tươi và trữ lạnh).
+         Máy xay trái cây.
+         Nhân sâm.
+         Đĩa hát.
+         Còng tay.
+         Thuốc nhuộm tóc và chế phẩm dùng chăm sóc tóc, có hoặc không có độc chất.
+         Mũ bảo vệ (mũ sắt và mũ an toàn trong công nghiệp)
+         Những chất gây bệnh cho người
+         Sản phẩm an toàn trong công nghiệp: dây lưng, lưới, dây đai an toàn
+         Dụng cụ chiếu xạ.
+         Bản gốc và bản sao của những sản phẩm dưới đây: 
+         Đĩa compact
+         Đĩa CD-ROM
+         Đĩa VCD
+         Đĩa DVD
+         Đĩa DVD-ROM
+         Thịt và sản phẩm từ thịt thú vật và chim.
+         Dược phẩm
+         Thuốc thú y
+         Sữa bột, sữa tươi
+         Nitro-cellulose
+         Phân bón hữu cơ
+         Cây trồng có hay không có đất, hoa và hạt giống
+         Hạt giống anh túc.
+         Xuất bản phẩm
+         Sừng tê giác thô hay đã sơ chế, bột từ sừng tê giác
+         Gạo (không kể cám gạo)
+         Vật liệu có tính phóng xạ
+         Bộ đồ ăn, dụng cụ làm bếp bằng sứ, thuỷ tinh
+         Băng từ thu sẵn
+         Thiết bị viễn thông
+         Gỗ xẻ, gỗ tròn
+         Đồ chơi có hình tiền giấy, tiền đồng
+         Các loại súng đồ chơi
+         Máy walkie-talkie đồ chơi
+         Rau cải (tươi hoặc ướp lạnh)
+         Pin làm từ chì, cadmium hay thuỷ ngân

1.4 Tạm nhập
Mọi loại hàng ngoài mặt hàng rượu và thuốc lá có thể nhập khẩu tạm thời vào Singapore nhằm mục đích sửa chữa, trưng bày triểm lãm, tham gia hội chợ, đấu giá và tham gia những sự kiện trưng bày tương tự khác mà không cần nộp thuế hàng hoá dịch vụ GST theo Kế hoạch nhập khẩu tạm thời (TIS) hoặc Chương trình thanh toán bằng thẻ ATA. Đối với việc nhập khẩu tạm thời cần phải khai báo giấy phép có liên quan của cơ quan hải quan và phải tái xuất những mặt hàng này. 

Đối với những hàng hoá nhập khẩu tạm thời vào Singapore, các công ty có thể xin thẻ ATA tại Phòng thương mại quốc tế Singapore. Thẻ ATA là thẻ đảm bảo nộp thuế nhập khẩu khi quá thời hạn nhập khẩu tạm thời. Hàng hoá nhập khẩu theo thẻ ATA không được bán tại Singapore phải tái xuất trong thời hạn nhập khẩu tạm thời. Trong trường hợp hàng hoá nhập khẩu đã phù hợp với những điều kiện kiểm soát, các công ty phải xin xác nhận của các cơ quan hữu quan của chính phủ trước khi nhập khẩu vào Singapore.

Những lô hàng hợp pháp nhập khẩu không cần nộp thuế nếu chúng được nhập khẩu:
+         Nhằm mục đích thu hút các đơn đặt hàng nước ngoài.
+         Nhằm mục đích trưng bày triển lãm tại Singapore để tạo điều kiện cho những nhà sản xuất Singapore sản xuất những sản phẩm tương tự phục vụ những đơn đặt hàng nước ngoài
+         Những sản phẩm của nhà sản xuất nhằm mục đích sao chép, kiểm tra hoặc thử nghiệm trước khi họ muốn sản xuất những mặt hàng này ở Singapore.

2. Chính  sách thuế và thuế suất
2.1 Thuế xuất nhập khẩu
Nhìn chung Singapore cho tự do xuất nhập khẩu hàng hoá dịch vụ, hầu hết (99%) hàng hoá xuất nhập khẩu không phải nộp thuế. Duy có xe máy, rượu, xăng dầu và thuốc lá là bị đánh thuế nặng.

2.2 Thuế dịch vụ và hàng hóa
Thuế dịch vụ và hàng hoá Singapore (GST) là thuế đánh vào tiêu dùng nội địa trong Singapore. Thuế sẽ áp dụng bất kì khi nào người tiêu dùng mua hàng hoá và dịch vụ từ kinh doanh đăng ký GST tại Singapore. Thuế suất thuế GST là 3%.

Tất cả hàng nhập khẩu (bất kể bán tại trong nước hay tái xuất khẩu) đều phải chịu thuế GST trừ khi hàng hoá được coi là ưu tiên đặc biệt của Cơ quan Thuế và Hải quan Singapore. Nếu hàng hoá được giữ tại các khu mậu dịch tự do (Sân bay Changi và các cảng biển Pasir Panjang, Keppel, Jurong và Sembawang) thì không bị coi là hàng nhập khẩu; sẽ không áp dụng GST cho đến khi hàng hoá rời các khu mậu dịch tự do (FTZ) để bán tại Singapore (hàng tái xuất từ FTZ được miễn thuế GST).

Nguyên liệu cho sản xuất được miễn thuế (3% GST) hoặc hoàn thuế khi tái xuất khẩu sản phẩm.

Bên ngoài FTZ, khi hàng hoá được nhập khẩu, GST (thuế đầu vào) phải được trả cho Phòng Thuế và Hải quan Singapore tại nơi nhập khẩu, bất kể nhà nhập khẩu là thương gia hay là người tiêu dùng cuối cùng. Tại điểm nhập khẩu, GST được áp dụng theo giá trị CIF của hàng hóa.

Khi một công ty/đại lý Singapore nhập khẩu hàng trên danh nghĩa một người nước ngoài không chịu thuế - người không thiết lập kinh doanh tại Singapore, công ty Singapore sẽ được coi là nhà nhập khẩu gốc, bất kể công ty Singapore có coi mình là đại lý hay không. Công ty Singapore phải thanh toán thuế đầu vào GST cho Phòng Thuế và Hải quan.

Giả sử rằng người không cư trú tại Singapore có trách nhiệm pháp lý do hợp đồng đại lý với công ty/đại lý Singapore nhập khẩu trên danh nghĩa người không cư trú, người đó được yêu cầu tính thuế đầu vào GST trên danh nghĩa người không cư trú. Người không cư trú có trách nhiệm được coi là có doanh thu kinh doanh hơn 1 triệu SGD dù không hoạt động kinh doanh thực tế tại Singapore nhưng có hoạt động thương mại thông qua đại lý Singapore. Doanh thu ít hơn 1 triệu SGD sẽ có nghĩa là đại lý có trách nhiệm thanh toán thuế đầu vào GST. Đại lý phải đăng ký tên người xuất khẩu không cư trú mà có doanh thu hơn 1 triệu SGD. Tài khoản riêng biệt phải được giữ để thanh toán cho người không cư trú phải chịu thuế.

3. Qui định về bao gói nhãn mác
+         Thực phẩm, dược phẩm, rượu, sơn và dung môi nhập khẩu phải có nhãn mác và phải nêu rõ xuất xứ.
+         Thực phẩm đóng gói lại phải có nhãn hiệu bằng tiếng Anh thể hiện thành phần trong thực phẩm theo chữ cái in, bất kể thực phẩm hoà trộn, tổng hợp hay hương liệu; phải nêu rõ trọng lượng tịnh;tên và địa chỉ của nhà sản xuất hoặc bán hàng và xuất xứ. Miêu tả bằng tiếng Anh về dung lượng đóng ghi trên nhãn mác. Những minh hoạ về hình ảnh phải không được sai lạc với bản chất tự nhiên hay nguồn gốc của thực phẩm. Thực phẩm theo những tiêu chuẩn đã đặt ra phải có nhãn mác phù hợp với những tiêu chuẩn đó.
+         Bao bì hàng thực phẩm được miêu tả như "làm giàu thêm", "bồi bổ"... với ẩn ý rằng hàng hoá chứa đựng những chất vitamin hay chất khoáng thì phải chỉ rõ khối lượng vitamin hay chất khoáng thêm trong mỗi đơn vị đo lường.
+         Nhãn mác đặc biệt được yêu cầu cho những thực phẩm, dược phẩm và hàng như chất béo động vật ăn được và không ăn được, sơn và dung môi.
+         Thực phẩm đã chế biến và dược phẩm phải được kiểm định và chấp thuận bởi Vụ Kiểm soát thực phẩm của Bộ Môi trường và Cơ quan khoa học Y tế.
+         Hàng điện tử phải được kiểm tra bởi Cơ quan Điện lực Singapore trước khi được lắp ráp, trong khi sơn và dung môi chịu quyền kiểm soát bởi Chánh Thanh tra các nhà máy thuộc Bộ Nhân lực.

4. Qui định về kiểm dịch động thực vật
Ngay từ năm 1985 Singapore đã ban hành Luật kinh doanh thực phẩm (Sale of food Act), quy định rõ thực phẩm tiêu thụ trên thị trường phải là hàng thật; nghiêm cấm mọi hình thức hàng giả, hàng nhái, hàng không có nhãn mác rõ ràng. Nghiêm cấm việc sử dụng những thông tin trong nhãn mác có thể gây ra sự nhầm lẫn cho người tiêu dùng; mọi hàng hóa không đủ phẩm chất đều phải tiêu huỷ, nếu vi phạm phải sử lý theo luật pháp. Cơ quan Nông sản thực phẩm và Thú y Singapore (The Agri-Food and Veterinary Authority - AVA) có trách nhiệm điều chỉnh và đảm bảo sự ổn định và cung cấp đầy đủ an toàn, không độc hại và chất lượng sản phẩm tươi.

Các Chứng chỉ do AVA cấp bao gồm Chứng chỉ cho các sản phẩm rau, quả và các sản phẩm khác. Đây là sự chứng nhận về mặt chất lượng, vệ sinh thực phẩm và cấp cho các trang trại trồng, sản xuất rau, hoa quả, chứng chỉ công nhận các cơ sở này đủ điều kiện chất lượng và vệ sinh để cung cấp vào thị trường Singapore. Chỉ những cơ sở nào được cấp Certificates này mới được nhập khẩu sản phẩm của chính mình sản xuất vào thị trường Singapore và nhà nhập khẩu Singapore cũng chỉ nhập khẩu thông qua những cơ sở này và chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm nhập khẩu, tiêu thụ tại thị trường Singapore. Khi hàng nhập khẩu vào Singapore, AVA kiểm tra lần cuối trước khi cho tiêu thụ (kiểm tra mẫu, các hoá chất, thuốc trừ sâu dược phép sử dùng, nhưng ở mức tối đa cho phép trong thực phẩm, rau, hoa quả).

AVA cũng chịu trách nhiệm thẩm tra tất cả các loại thực phẩm qua chế biến, các loại vật nuôi, các sản phẩm sơ chế nhập khẩu (và các sản phẩm được sản xuất trong nước); việc kiểm tra theo định kỳ các lò mổ, các cơ sở chế biến và dự trữ thực phẩm cũng do cơ quan này tiến hành. Việc nhập khẩu các sản phấm sữa, vật nuôi, thịt, cá được xem là có độ rủi ro cao và do đó cần phải được giám sát chặt chẽ. Thịt và các sản phẩm từ thịt có thể được nhập khẩu từ các trang trại hoặc các cơ sở sản xuất tại các nước nhất định. Chỉ có các cơ sở được chính thức công nhận tại Úc, Canada, Đan Mạch, New Zealand, Thụy Điển và Hoa Kỳ mới được phép xuất khẩu thịt đông lạnh sang Singapore. Các loại thịt bò, thịt cừu đông lạnh và thịt gia cầm chỉ có thể được nhập khẩu từ một số nước nhất định, hiện tại là 26 nước và trong một số trường hợp thì chỉ các cơ sở được sự cho phép của AVA mới được xuất khẩu. Hiện nay, chỉ có các nông trang được chính thức công nhận của Malaysia, Nhật Bản, Úc và New Zealand mới được phép xuất khẩu trứng tươi sang Singapore. Singapore chỉ cho phép các trang trại được cấp phép tại Malaysia và Inđônêxia xuất khẩu thịt gà nướng sang nước này, và chỉ có các trang trại ở miền tây Malaysia mới được xuất khẩu vịt sang Singapore.

Ngoài ra, chỉ có một trang trại của Inđônêxia được phép xuất khẩu lợn sang Singapore. Chỉ có các sản phẩm sữa đã được xử lý tiệt trùng hai lần mới được phép nhập khẩu vào nước này. Tất cả các vật nuôi đều phải được kiểm tra trước và sau khi giết mổ, tất cả các lô hàng thịt, cá nhập khẩu phải qua kiểm tra bằng trực giác và phải tiến hành lấy mẫu để kiểm tra trong phòng thí nghiệm.

Việc nhập khẩu các động vật có vỏ mang tính rủi ro cao chẳng hạn như sò, hến, tôm và thịt cua đã qua chế biến chỉ có một số nguồn cung ứng nhất định có chương trình vệ sinh chấp nhận được và phải có giấy chứng nhận y tế từ nước xuất xứ mới được phép. Hiện nay chỉ các nước Úc, Canada, Pháp, Ai Len và Hà Lan, New Zealand, Hoa Kỳ mới được phép xuất khẩu các động vật có vỏ. Tất cả  các lô hàng này phải trải qua kiểm tra trong phòng thí nghiệm trước khi vào Singapore. Tất cả các sản phẩm đông lạnh là đối tượng chịu sự kiểm tra này phải được giữ nguyên trong các phương tiện bảo quản lạnh sau khi được thông qua. Các thủ tục kiểm tra thông thường mất khoảng 7 đến 10 ngày.

Các biện pháp về bảo đảm an toàn thực phẩm đối với hàng nhập khẩu, tiêu thụ (do AVA thực hiện thường xuyên và định kỳ)
+         Đánh giá hệ thống, thực tiễn nơi sản xuất, chế biến (trong và ngoài nước);
+         Kiểm nghiệm và cấp Chứng chỉ cho nhà sản xuất, chế biến (trong và ngoài nước);
+         Gắn nhãn cho từng lô hàng nhập khẩu để truy cứu nguồn gốc xuất xứ;
+         Kiểm tra chất lượng khi hàng nhập tới cửa khẩu;
+         Kiểm tra tại các nơi bán buôn, bán lẻ về các điều kiện chất lượng, vệ sinh.

5. Quyền sở hữu trí tuệ

Singapore có khung pháp lý tốt về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Đối với nhãn hiệu thương mại, theo luật Singapore, nhãn hiệu hàng hóa là bất cứ dấu hiệu, hình ảnh nào có thể phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ cùng loại của người khác và những dấu hiệu đó có thể bao gồm chữ cái, từ ngữ, tên gọi, chữ ký, chữ số, hình mẫu bao gói, nhãn hàng, hình mô phỏng, mầu sắc hoặc tổng hợp các yếu tố đó. Những dấu hiệu đó không được trùng hoặc gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã đăng ký trước liên quan đến hàng hóa/dịch vụ cùng loại, không gây nhầm lẫn với nhãn hiệu nổi tiếng, không được trái với pháp luật hoặc đạo đức xã hội, không chỉ dẫn sai nguồn gốc địa lý của hàng hóa.

Những dấu hiệu không được đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa:
+         Những dấu hiệu gây phản cảm đối với xã hội;
+         Những dấu hiệu có kèm theo những từ hoặc ám chỉ nghĩa tương tự với từ, cụm từ như "độc quyền" hoặc "đã bảo họ độc quyền", "đã đăng ký", "kiểu dáng đã đăng ký" hoặc "nhãn hiệu đã đăng ký"; "bản quyền tác giả"; "hàng nhái mẫu này là hàng giả";
+         Những dấu hiệu tượng trưng cho Tổng thống Singapore;
+         Những dấu hiệu liên quan đến quân đoàn Anzac thời ký thế chiến thứ nhất.
+         Những dấu hiệu đặc trưng cho Chữ thập đỏ và chữ thập đỏ
+         Geneva như chữ thập có màu đỏ trên nền bạc hoặc nền trắng, chữ thập đỏ Liên bang Thụy sĩ...
+         Các biểu tượng như Quốc huy Cộng hòa Singapore, huy hiệu của quân đội Tổng thống, của Hoàng gia, huy hiệu và các hình vẽ biểu tượng gây nhầm lẫn với những dấu hiệu trên.
+         Các biểu tượng của Hoàng gia hoặc Hoàng đế như vương miện, hoặc cờ nước Cộng hòa hoặc cờ Hoàng gia, cờ Hoàng đế.

Cơ sở xác lập quyền đối với nhãn hiệu hàng hóa:
Nhãn hiệu hàng hóa được bảo hộ tại Singapore có thể xác lập thông qua đăng ký hoặc thông qua sử dụng. Việc đăng ký nhãn hiệu hàng hóa tại Singapore là không bắt buộc. Tuy nhiên, đối với nhãn hiệu hàng hóa chưa đăng ký, việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa phải dựa trên thông luật về chống mạo danh- quá trình này sẽ tốn kém và chiếm nhiều thời gian hơn so với các biện pháp thực thi áp dụng đối với quá trình bảo hộ quyền đối với nhãn hiệu đã đăng ký.

Singapore không phải là  thành viên của Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa nên doanh nghiệp Việt Nam muốn đăng ký nhãn hiệu hàng hóa tại Singapore phải đăng ký theo hệ thống đăng ký quốc gia tại Cục sở hữu trí tuệ Singapore (tiếng Anh viết tắt là "IPOS") hoặc đăng ký trực tuyến qua mạng internet. Các tổ chức đại diện sở hữu công nghiệp Việt Nam, ví dụ như Văn phòng luật sư Phạm & Liên Danh có thể giúp các cá nhân, doanh nghiệp Việt Nam trong việc liên lạc với đại diện sở hữu công nghiệp Singapore và tiến hành các thủ tục nộp đơn tại Singapore.

Đăng ký nhãn hiệu hàng hóa ở Singapore có hiệu lực là 10 năm kể từ ngày nộp đơn và có thể được gia hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần 10 năm với điều kiện chủ sở hữu nộp đơn gia hạn và lệ phí duy trì hiệu lực đúng hạn. Việc chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp đói với đơn nhãn hiệu đang trong thời gian xử lý đơn hoặc nhãn hiệu đang có hiệu lực phải được ghi nhận tại Cơ quan đăng ký thì mới có giá trị pháp lý. Đạo luật nhãn hiệu hàng hóa quy định chủ sở hữu mới có nghĩa vụ đăng ký việc chuyển nhượng. Việc sửa đổi tên chủ sở hữu được thực hiện kèm theo lệ phí 80 đô la Singapore.

Trong trường hợp ký hợp đồng li-xăng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hóa đã đăng ký, hợp đồng li-xăng cũng phải được đăng ký với cơ quan đăng ký kèm theo lệ phí là 60 đô la Singapore cho một nhãn hiệu.

Hành vi sử dụng nhãn hiệu hàng hóa trùng hoặc tương tự đối với hàng hóa/dịch vụ cùng loại gây nhầm lẫn bị coi là hành vi xâm phạm quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa.

Việc sử dụng nhãn hiệu gây nhầm lẫn với nhãn hiệu nổi tiếng cũng bị coi là hành vi xâm phạm quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng. Khi có dấu hiệu bị xâm phạm,chủ sở hữu có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền Singapore bảo vệ quyền của mình. Các biện pháp thực thi bao gồm các biện pháp hành chính, dân sự, hình sự và biện pháp kiểm soát biên giới

6. Khu vực tự do thương mại
Singapore duy trì một  khu vực tự do thương mại tại hải cảng Singapore (bao gồm hải cảng Singapore, Keppel Distripark, Keppel Link Bridge và Brani Terminal), hải cảng Jurong, Sembawang, Pasir Panjang Terminal và Wharves, Changi (Changi Air Cargo, Air Logistics Park).

7. Qui định về tiêu chuẩn đối với hàng hóa, dịch vụ
Singapore chưa áp đặt các loại sản phẩm nhập khẩu vào Singapore phải đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng ISO 9000, tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm HACCP, tiêu chuẩn quản lý môi trường ISO 14000, tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000... tuy nhiên Chính phủ Singapore đang khuyến khích áp dụng tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm HACCP.

Một số ngành hàng không yêu cầu tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật khi nhập khẩu vào Singapore, mà do thỏa thuận giữa người mua và người bán, như: Sản phẩm nhựa; sản phẩm gỗ; xe đạp và phụ tùng; dây điện và cáp điện (trừ dây điện chống cháy); hàng dệt may; giày dép; hàng thủ công mỹ nghệ; cà phê, nhân điều và hàng nguyên liệu thô.

Riêng đối với mặt hàng điện tử, thiết bị và linh kiện điện tử, trong quy định về bảo vệ người tiêu dùng "Singapore Consumer Protection", Cơ quan An toàn Singapore đã đưa ra danh mục 47 mặt hàng điện tử, thiết bị và linh kiện điện tử bị quản lý, và 35 yêu cầu cụ thể về tiêu chuẩn, quy chuẩn đối với các mặt hàng này. Từng mặt hàng bị quản lý đều có qui định rõ số hiệu, loại tiêu chuẩn cụ thể của Singapore, hoặc của nước ngoài cùng với các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật cụ thể.

Hàng thực phẩm và phải tuân thủ các yêu cầu, quy định đối với hàng thực phẩm trong Bộ luật "Sale of Food Act". Đối với các mặt hàng thực phẩm, thủy hải sản nhập khẩu vào Singapore, Cơ quan kiểm dịch vệ sinh an toàn thực phẩm Singapore (AVA), tùy từng loại hàng sẽ yêu cầu nhà nhập khẩu gửi mẫu để kiểm tra về: hóa chất, thành phần dinh dưỡng, chất gây nghiện, thuốc trừ sâu, nhiễm khuẩn, vật ký sinh, chất lượng sản phẩm, chất độc hại, phân tích sinh học. Chỉ khi nào mẫu sản phẩm đạt các thông số yêu cầu về an toàn thực phẩm và các yêu cầu khác đối với từng mặt hàng cụ thể trong bộ luật "Sale of Food Act" thì mới được NK vào Singapore.

Đối với mặt hàng thực phẩm đóng gói phải có nhãn mác đúng theo qui định của Singapore mới được NK và tiêu thụ tại Singapore. Nhãn mác sản phẩm phải bao hàm các thông tin về: Tên hoặc mô tả về sản phẩm; thành phần dinh dưỡng; trọng lượng tịnh; tên và địa chỉ của nhà sản xuất hoặc nhà NK, nước xuất xứ của sản phẩm; ngày sản xuất và ngày hết hạn sử dụng.

Spring: Là tổ chức thuộc Bộ Thương mại - Singapore; được hưởng chi phí từ ngân sách của chính phủ đồng thời được hưởng phí quản lý từ các doanh nghiệp theo quy định của nhà nước. Tổ chức CPS  (consumer product safety department) là một đơn vị thuộc Spring chịu trách nhiệm kiểm tra an toàn sản phẩm tiêu dùng lưu thông trên thị trường, toàn bộ hoạt động kiểm tra hàng hóa lưu thông trên thị trường do ngân sách của chính phủ cấp; Căn cứ vào luật bảo vệ người tiêu dùng của Singapore từ năm 1995 Spring có trách nhiệm quản lý và kiểm soát an toàn sản phẩm đối với người tiêu dùng.

Biện pháp quản lý an toàn sản phẩm là dán "safety mark" đối với danh mục hàng hoá bắt buộc phải quản lý về an toàn sản phẩm.  Spring cấp chứng nhận "safety mark" theo trình tự thủ tục: Doanh nhiệp sản xuất, nhập khẩu đưa sản phẩm tới các trung tâm thử nghiệm để đánh giá xác định các chỉ tiêu an toàn theo quy định. Căn cứ vào kết quả trên hồ sơ Spring sẽ cấp chứng nhận "safety mark"; doanh nghiệp tự dán "safety mark"trên hàng hoá trước khi đưa ra lưu thông.

8. Thành lập doanh nghiệp
Theo các văn bản Pháp luật về công ty thì ở Singapore có các loại hình doanh nghiệp sau:
+         Doanh nghiệp tư nhân (doanh nghiệp một chủ)
+         Hợp danh
+         Công ty

Theo Luật đăng ký kinh doanh (Luật số 32) thì một cá nhân nào hay một nhóm những cá nhân có thể thành lập doanh nghiệp một chủ (công ty), hợp danh thông qua cơ chế đăng ký với cơ quan đăng ký được máy tính hoá. Các thông tin đăng ký tại đây đều được cung cấp cho bất kỳ ai quan tâm.

"Công ty " hợp danh không được có quá 20 thành viên, loại trừ đối với các (Công ty) hợp doanh hành nghề được điều chỉnh theo luật. Để đăng ký thì chủ sở hữu duy nhất hay thành viên (công ty) hợp danh phải có đơn tới cơ quan đăng ký để được kiểm tra xem tên dự tính của doanh nghiệp hay (công ty) hợp danh có thích hợp không. Doanh nghiệp một chủ và (công ty ) hợp danh không là pháp nhân. Chủ sở hữu và thành viên của thành viên hợp danh chịu trách nhiệm cá nhân đối với hoạt động của doanh nghiệp và (công ty) hợp danh. Doanh nghiệp một chủ và (công ty) hợp danh không có nghĩa vụ phải nộp báo cáo tài chính hàng năm. Nhưng thời hạn đăng ký của 2 loại hình doanh nghiệp này là 01 năm và được gia hạn hàng năm. Một công ty có thể tham gia với tư cách là thành viên hợp danh.

Doanh nghiệp tư nhân được coi là doanh nghiệp của cá nhân. Tài sản của doanh nghiệp tư nhân không có sự tách bạch với tài sản khác của chủ doanh nghiệp. Khi tham gia các quan hệ kinh tế, dân sự, chủ doanh nghiệp tư nhân được đối xử như thể nhân. Vì vậy, không có những quy định riêng cho chủ doanh nghiệp tư nhân. Khi chủ doanh nghiệp của cá nhân. Tài sản của doanh nghiệp tư nhân không có sự tách bạch với tài sản khác của chủ doanh nghiệp. Khi tham gia các quan hệ kinh tế, dân sự, chủ doanh nghiệp tư nhân được đối xử như thể nhân. Vì vậy, không có những quy định riêng cho chủ doanh nghiệp tư nhân. Khi chủ doanh nghiệp tư nhân chết thì doanh nghiệp đương nhiên chấm dứt sự tồn tại.

Công ty trong hệ thống pháp luật của Singapore

Theo Luật công ty (Luật số 50) thì 2 hay nhiều người có thể thành lập công ty hoạt động vì mục đích hợp pháp thông qua việc họ ký vào thoả thuận thành lập công ty và tuân thủ quy định đăng ký. Trong mọi trường hợp một công ty phải có ít nhất 2 thành viên, trừ khi công ty này là một công ty con thuê 100% sở hữu của một công ty khác. Nếu công ty trong quá trình hoạt động mà còn lại một thành viên và công ty vẫn tiếp tục hoạt động hơn tháng thì thành viên này bị coi là phạm luật công ty và phải chịu trách nhiệm về tất cả những khoản nợ xảy ra trong công ty thì việc sở hữu cổ phiếu của công ty là điều kiện bắt buộc.

9. Văn hóa kinh doanh
Trong văn hoá kinh doanh của Singapore, những quan hệ cá nhân thường được coi trọng hơn công ty mà bạn đại diện. Người Singapore thường có niềm tin cố hữu về những người cùng dân tộc.Văn hoá kinh doanh của Singapore là tính cạnh tranh cao và có đạo đức kinh doanh mạnh mẽ khác thường. Năng lực chuyên môn, những thành tích và khả năng làm việc theo nhóm được đánh giá cao.Người Singapore không thích những thông tin "ngoài lề".Doanh nhân Singapore thường có khuynh hướng để tình cảm lấn át việc ra quyết định và giải quyết vấn đề. Chủ nghĩa dân tộc có ảnh hưởng mạnh tới suy nghĩ. Nhân viên người Singapore rất trung thành với công ty.Xây dựng quan hệ với từng thành viên trong nhóm làm việc rất quan trọng trong việc kinh doanh tại Singapore. Bạn hàng Singapore phải cảm thấy thoải mái khi làm việc với bạn.

Lịch sự là phần không thể thiếu trong quan hệ kinh doanh thành công tại Singapore. Tuy nhiên lịch sự không có ảnh hưởng tới việc quyết định kinh doanh của người Singapore.Giống như Việt Nam, người Singapore có thể hỏi những câu hỏi riêng tư về hôn nhân hay thu nhập. Bạn có thể từ chối trả lời một cách lịch sự, song nếu không trả lời những câu hỏi như vậy của người Singapore thì mối quan hệ có thể kém đi.Tuổi tác và thâm niên được kính trọng trong văn hoá kinh doanh Singapore. Nếu bạn là thành viên của một đoàn đại biểu, thì thành viên quan trọng nhất phải được giới thiệu đầu tiên.

Danh thiếp được trao đổi vào lúc bắt đầu cuộc gặp gỡ, ngay sau khi giới thiệu. Trao nhận danh thiếp nên bằng hai tay. Xem danh thiếp của đối tác một cách cẩn thận và cung kính. Không bao giờ được dùng tay trái khi trao đổi danh thiếp. Vì người Hoa chiếm tỷ lệ dân số cao nên bạn cần có danh thiếp một mặt in bằng tiếng Trung Quốc. Khi ngồi nói chuyện với đối tác không nên ngồi chéo chân. Ra hiệu vẫy tay nên vẫy bằng tay phải với lòng bàn tay hướng xuống đất, các ngón tay hướng ra và vẫy lại.Danh thiếp nên được in (in nổi là tốt nhất) bằng tiếng Anh. Do tỉ lệ dân kinh doanh Singapore là người Trung Quốc cao nên mặt sau danh thiếp nên dịch sang tiếng Trung Quốc. Màu vàng là màu ưa chuộng trên danh thiếp đối với người Hoa. Người Singapore rất nhiệt tình khi trao đổi danh thiếp.

No comments:

Post a Comment